Từ "Phép chuẩn hóa" của anh Tuân nghe hơi chuyên môn, có vẻ đao to búa lớn, nghe mùi BĐT. Theo kiến thức và kinh nghiệm hạn hẹp của mình đúc kết được trong quá học thì kĩ thuật trên thường được dùng trong các bài toán mà giả thiết thường cho các số liệu dạng tương đối ($R=2Z_L, U_C=3U_L, f_1=4f_2, A=nB...$) và yêu cầu bài toán cũng đòi hỏi một kết quả tương đối (tìm mối qua hệ giữa $f$ và $f_p$, hay tìm $\cos \varphi$ vì thực chất $\cos\varphi$ chính là tỉ số giữa $R$ và $Z$,...cũng có rất nhiều bài toàn về giản đồ vecto mà khi sửu dụng kĩ thuật này thì bài giải trở nên thanh thoát hơn). Cá biệt một số trường hợp đề bài yêu cầu một kết quả tuyệt đối (tìm $P$ hoặc $f$ chẳng hạn,...các bài kiểu này giải bình thường thì khá dài, lúc này tác dụng của kĩ thuật trên trở nên rất mạnh) nhưng trong quá trình làm ta vẫn có thể sử dụng kĩ thuật trên nhưng đòi hỏi, kiến thức, kĩ năng làm bài tốt (lấy ngay ví dụ đơn giản trên chẳng hạn thì $P$ có thể tính được thông qua $P=P_{CH}.\cos^2 \varphi$ hay nhưng bài toán nếu có một tỉ số nào đó ta có thể giải quyết được bài toán,...và đương nhiên đại lượng được tự chọn không gây ảnh hưởng đến dữ kiện tuyệt đối mà đề bài cung cấp cho ta). Một ví dụ cụ thể:
Bài toán: Đặt một điện áp xoay chiều có giá trị hiệu dụng $220V$ và tần số thay đổi được vào hai đầu đoạn mạch $AB$ gồm $AM$ và $MB$ nối tiếp. Đoạn $AM$ chứa cuộn dây thuần cảm và điện trở $R$, đoạn $MB$ chứa tụ điện. Khi tần số $f_{1}=50Hz$ cường độ dòng điện trong mạch đạt cực đại bằng $\dfrac{11}{6}(A)$. Khi tần số $f_{2}$ thì dòng điện trong mạch sớm pha hơn điện áp hai đầu đoạn mạch và hệ số công suất của đoạn mạch $AB$ và $AM$ tương ứng là $0,8$ và $0,6$. Giá trị của $f_{2}$ là
A. $62,5Hz$
B. $40\sqrt{3}Hz$
C. $40\sqrt{2}Hz$
D. $40Hz$ (thực ra bài này cho thừa dữ kiện)
Lời giải:
•Khi $f=f_1 \Rightarrow 1=\omega^2_1LC$
•Khi $f=f_2$, chọn $AM=4,AB=3 \Rightarrow 0,64=\omega^2_2LC$
• Từ hai điều trên ta có được $\dfrac{f_1}{f_2}=\dfrac{5}{4} \Rightarrow f_2=40(Hz)$
Nhờ các kĩ thuật trên trong các bài toàn khó phức tạp giúp ta giảm nhẹ được mức độ cồng kềnh của các phép biến đổi, tránh gây rối,.. dẫn đến những sai lầm đáng tiếc, đương nhiên thao tác của chúng ta cũng nhanh hơn. Ở một số trường hợp kĩ thuật này giúp ta giảm bớt được số ẩn, hay tránh giải những phương trình bậc 2 khá mất thời gian. Lấy một ví dụ chẳng hạn
Bài toán: Đặt điện áp xoay chiều $u=U_o\cos \left(100\pi t+\dfrac{7\pi}{12} \right)(V)$ vào hai đầu đoạn mạch $AMB$ thì biểu thức điện áp giữa hai đầu các đoạn mạch $AM$ và $MB$ lần lượt là $u_{AM}=100\cos \left(100 \pi t+\dfrac{\pi}{4} \right)(V)$ và $u_{MB}=U_{o1}\cos \left(100 \pi t+\dfrac{3\pi}{4} \right)(V)$. Giá trị của $U_o$ và $U_{o1}$ lần lượt là
A. $100\sqrt{2} , 100$
B. $100\sqrt{3} , 200$
C. $100 ,100\sqrt{2}$
D. $200 ,100\sqrt{3}$
Lời giải:Ta có:
$$u=U_o\cos \left(100\pi t+\dfrac{7\pi}{12} \right)=u_{AM}+u_{MB}$$
Nếu ta chọn $t=-\dfrac{1}{400}(s)$ thì phương trình trên chỉ còn
$$U_o\cos \left(-\dfrac{\pi}{4}+\dfrac{7\pi}{12} \right)=100$$ từ đây dễ dàng tìm được giá trị của yêu cầu đề bài
Trên đây chỉ là một số quy tắc chung khi vận dụng kĩ thuật này (mình chỉ nếu các bài toán điện làm dẫn chứng, còn rất nhiều bài toán khác co thể vận dụng đươc) mong rằng với kiến thức hạn hẹp của mình có thể giúp các bạn hiểu và vận dụng linh hoạt trong từng bài toán hay thậm chí khái quát những phương pháp riêng cho mình. Hãy nhận bài toán một cách đa chiều, lúc đó bạn có thể có những cách giải mà không ai hay sách vở nào có thể có được.
tkvatliphothong, chào thân ái và quyết thắng