Câu hỏi: Tâm trạng tác giả trong bài thơ Qua Đèo Ngang.
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan qua bài thơ "Qua đèo Ngang".
2. Thân bài
a. Tâm trạng của tác giả được bộc lộ gián tiếp qua bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà:
- Thời gian: Chiều tà vốn là khoảng thời gian nhạy cảm khi con người kết thúc một ngày lao động mệt mỏi để trở về với gia đình, thường gợi cho con người cảm giác nhớ nhung, man mác buồn.
- Không gian: Tại một vùng núi hoang sơ hẻo lánh đó là "đèo Ngang", đến cỏ cây cũng phải chen nhau để tranh giành sự sống.
- Bức tranh thiên nhiên có xuất hiện sự sống của con người nhưng thưa thớt đến nao lòng khi chỉ có "Lom khom dưới núi tiều vài chú/ Lác đác bên sông chợ mấy nhà".
- Nghệ thuật: Tác giả đã sử dụng thời gian quen thuộc trong thơ ca để gợi nỗi thông qua các biện pháp nghệ thuật như đối, đảo ngữ, sử dụng từ láy gợi hình khiến cho bức tranh thiên nhiên trở nên rõ nét hơn.
b. Tâm trạng được gợi mở qua bức tranh bóng "xế tà" với những tâm trạng hỗn loạn, ngổn ngang còn chưa kịp giãi bày của thi nhân.
- Nỗi nhớ nước thương nhà được thi nhân bộc bạch một cách trực tiếp và hiện lên rõ nét hơn:
- Không gian đã bớt trầm lặng hơn khi có tiếng con chim cuốc xuất hiện với tiếng kêu "quốc quốc" đã khiến nhà thơ không khỏi đau lòng và càng nhớ về quê hương, đất nước nhiều hơn.
- Bên cạnh nỗi nhớ về quê hương đất nước thì nỗi nhớ thương nhà, thương gia đình cũng vẫn luôn thường trực và nồng cháy trong trái tim nhà thơ với "cái gia gia" đã gợi cho nhà thơ tới những người thân yêu của mình.
- Không phải nỗi nhớ nào cũng có thể bày tỏ, cũng có người lắng nghe. Bởi vậy mà những nỗi nhớ chất chồng đó nữ thi nhân chỉ giữ cho riêng mình với "một mảnh tình riêng ta với ta".
- Nghệ thuật: chơi chữ "quốc quốc", "gia gia", sử dụng những hình ảnh giản dị, quen thuộc trong cuộc sống để bày tỏ tiếng lòng luôn hướng về Tổ quốc, quê hương của thi nhân.
→ Bài thơ chính là những dòng tâm sự thầm kín, chất chứa của tác giả thể hiện một phong cách sáng tác rất riêng biệt và đậm chất thơ Đường luật của nhà thơ. Qua đó chúng ta thấy được một trái tim cháy bỏng luôn hướng về Tổ quốc và khao khát được hạnh phúc của tác giả.
3. Kết Bài
Nêu cảm nghĩ cá nhân và bài học về tình yêu quê hương đất nước cho mỗi người.
Đèo Ngang là chặng dừng chân đầu tiên trên đường vào Nam nhận nhiệm vụ. Xa quê hương, gia đình, người thân lòng nữ sĩ không khỏi bâng khuâng. Tín hiệu nghệ thuật đầu tiên người đọc nhận thấy là bóng xế tà. Tới đây mặt trời sắp lặn, hoàng hôn buông xuống, vũ trụ đang chìm dần vào cõi hư vô vắng lặng. Có chăng chỉ còn lại những tia sáng yếu ớt cuối chiều. Từ tà diễn tả một khái niệm sắp tàn lụi, biến mất. Không gian và thời gian gợi nỗi buồn man mác, đặc biệt của người lữ thứ tha hương:
Vẳng nghe chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau
Buổi chiều mà lại là chiều tà gợi cho người ta thêm nhớ hơn. Nữ sĩ cũng vậy, khoảng thời gian ấy thích hợp nhất cho sự bộc lộ tâm trạng nhớ nhung khắc khoải. Lữ thứ chân bước vội cũng như cánh chim chiều mau cánh tìm chỗ trú ngụ, lũ trẻ chăn trâu gọi bạn hồi thôn. Không chỉ có trong bài thơ này, trong bài Chiều hôm nhớ nhà ta cũng bắt gặp tâm sự đó.
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
Ráng chiều gợi tâm trạng nhớ thương. Hoành sơn vốn nổi tiếng hùng vĩ hoang sơ. Trong khung cảnh ấy trước mắt thi nhân cỏ cây hoa lá chen chúc nhau tìm chút ánh sáng mặt trời. Một mình trên đỉnh núi non hiểm trở lại càng cảm thấy trống vắng. Mặc dù cảnh vật hữu tình: cỏ cây, hoa lá, sông nước, biển khơi ... Có lẽ lòng nữ sĩ chợt nhớ, hay nói cho đúng hơn hình ảnh người thân, gia đình, quê hương chợt hiện về. Đây cũng là lúc bữa cơm chiều đang đón đợi, cả nhà sắp tụ họp bên nhau... Vậy mà giờ đây một mình cất bước nơi đất khách quê người.
Đang nao lòng buồn bã, phía xa xa dưới chân đèo xuất hiện hình ảnh:
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Cảnh vật sự sống thật vắng vẻ: mấy bác tiều phu lom khom đốn củi, vài ngôi nhà chợ liêu xiêu. Lối đảo ngữ được vận dụng rất thần tình, hình ảnh này gợi một sự so sánh liên tưởng tới cuộc sống tẻ nhạt, tiêu xơ. Nó khác hẳn chốn kinh kỳ náo nhiệt đua chen. Nhà thơ đi tìm sự sống, nhưng chốn Đèo Ngang khiến cho lòng Bà đầy thất vọng. Hai câu thơ đối nhau rất chỉnh tạo nên hình ảnh tiêu điều xơ xác của cuộc sống chốn đèo Ngang.
Trong sự vắng lặng ấy xa xa nghe có tiếng kêu đều khoan nhặt man mác nhớ thương của quốc quốc, gia gia. Tương truyền sau khi vua Thục là Lưu Bị bại trận trước Lục Tốn của Đông Ngô, ông chạy về thành Bạch Đế và mất tại đó. Sau khi mất Thục Đế đã hoá thành con chim quốc thể hiện niềm đau xót mất nước. Khung cảnh da diết tiếng chim kêu chiều buồn bã gợi ta nhớ những câu thơ:
Đây bốn bề núi núi
Hiu hắt vắng tăm người
Đèo cao và lưng hẹp
Dăm túp lều chơi vơi
Tiếng chim quốc, gia gia do chính bà cảm nhận hay là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn nữ sĩ. Đến đây nỗi lòng thi nhân đồng điệu với ông vua Thục muốn níu kéo những kỉ niệm xưa, hoài niệm về một thời dĩ vãng vàng son. Tiếng chim gợi nỗi niềm nhớ nước thương nhà đến nao lòng. Nhớ về gia đình, nhớ về đất nước - phải chăng chính sự hoài niệm về triều đại nhà Lê mà bà từng sống. Thái độ của nữ sĩ là phủ nhận thực tại, tìm về quá khứ. Nhà thơ Nguyễn Du đã từng nói "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?" trong hoàn cảnh này điều đó hoàn toàn hợp lý.
Khép lại bài thơ là cả một tâm trạng dồn nén:
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta
Nhà thơ có tâm sự u hoài, đứng trước không gian vời vợi bao la: trời, non, nước. Khung cảnh càng rộng lớn thì con người càng bé nhỏ cô đơn. Và như vậy chỉ có ta với ta, mình với mình mà thôi. Ta là cá nhân nữ sĩ - con người của vật chất đối diện với ta - con người của tâm hồn.
Một mình dối diện với không gian cảnh vật, với cuộc sống và để rồi với chính mình. Trong lòng thi nhân chất chứa bao nỗi niềm biết chia sẻ cùng ai? Một mảnh tình riêng trong một khối tình rộng lớn có chăng mình lại nói chuyện với mình. Nỗi buồn được nhân lên gấp bội. Đây là tâm sự của chính tác giả và cũng là tâm sự của những con người xót xa trước thế sự đổi thay, của những thế hệ từng sống với quá khứ, xót xa với thực tại.
Có rất nhiều những nhà thơ mượn cảnh để tả tình, nhưng có lẽ thành công nhất là Bà Huyện Thanh Quan. Hình ảnh thơ gần gũi, giàu sức biểu cảm. Điều đáng nói ở đây là bà đã lựa chọn được những tín hiệu nghệ thuật đắt giá để từ đó diễn tả tâm sự của chính mình. Trong bài thơ đã có đầy đủ cả tâm hồn, tình cảm, nỗi lòng nhà thơ gửi gắm vào đó. Lời thơ nghe xúc động bồi hồi làm cho người đọc cũng băn khoăn day dứt.
Dàn ý
1. Mở bàiGiới thiệu tác giả, tác phẩm và tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan qua bài thơ "Qua đèo Ngang".
2. Thân bài
a. Tâm trạng của tác giả được bộc lộ gián tiếp qua bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà:
- Thời gian: Chiều tà vốn là khoảng thời gian nhạy cảm khi con người kết thúc một ngày lao động mệt mỏi để trở về với gia đình, thường gợi cho con người cảm giác nhớ nhung, man mác buồn.
- Không gian: Tại một vùng núi hoang sơ hẻo lánh đó là "đèo Ngang", đến cỏ cây cũng phải chen nhau để tranh giành sự sống.
- Bức tranh thiên nhiên có xuất hiện sự sống của con người nhưng thưa thớt đến nao lòng khi chỉ có "Lom khom dưới núi tiều vài chú/ Lác đác bên sông chợ mấy nhà".
- Nghệ thuật: Tác giả đã sử dụng thời gian quen thuộc trong thơ ca để gợi nỗi thông qua các biện pháp nghệ thuật như đối, đảo ngữ, sử dụng từ láy gợi hình khiến cho bức tranh thiên nhiên trở nên rõ nét hơn.
b. Tâm trạng được gợi mở qua bức tranh bóng "xế tà" với những tâm trạng hỗn loạn, ngổn ngang còn chưa kịp giãi bày của thi nhân.
- Nỗi nhớ nước thương nhà được thi nhân bộc bạch một cách trực tiếp và hiện lên rõ nét hơn:
- Không gian đã bớt trầm lặng hơn khi có tiếng con chim cuốc xuất hiện với tiếng kêu "quốc quốc" đã khiến nhà thơ không khỏi đau lòng và càng nhớ về quê hương, đất nước nhiều hơn.
- Bên cạnh nỗi nhớ về quê hương đất nước thì nỗi nhớ thương nhà, thương gia đình cũng vẫn luôn thường trực và nồng cháy trong trái tim nhà thơ với "cái gia gia" đã gợi cho nhà thơ tới những người thân yêu của mình.
- Không phải nỗi nhớ nào cũng có thể bày tỏ, cũng có người lắng nghe. Bởi vậy mà những nỗi nhớ chất chồng đó nữ thi nhân chỉ giữ cho riêng mình với "một mảnh tình riêng ta với ta".
- Nghệ thuật: chơi chữ "quốc quốc", "gia gia", sử dụng những hình ảnh giản dị, quen thuộc trong cuộc sống để bày tỏ tiếng lòng luôn hướng về Tổ quốc, quê hương của thi nhân.
→ Bài thơ chính là những dòng tâm sự thầm kín, chất chứa của tác giả thể hiện một phong cách sáng tác rất riêng biệt và đậm chất thơ Đường luật của nhà thơ. Qua đó chúng ta thấy được một trái tim cháy bỏng luôn hướng về Tổ quốc và khao khát được hạnh phúc của tác giả.
3. Kết Bài
Nêu cảm nghĩ cá nhân và bài học về tình yêu quê hương đất nước cho mỗi người.
Bài mẫu
Bài thơ Qua Đèo Ngang gây nức lòng người đọc qua bao thế kỉ. Nó ấn tượng không phải bằng lời văn nhẹ nhàng sâu lắng giàu cảm xúc mà còn bởi chính lối nói mà các thi nhân xưa thường dùng: tả cảnh ngụ tình.Đèo Ngang là chặng dừng chân đầu tiên trên đường vào Nam nhận nhiệm vụ. Xa quê hương, gia đình, người thân lòng nữ sĩ không khỏi bâng khuâng. Tín hiệu nghệ thuật đầu tiên người đọc nhận thấy là bóng xế tà. Tới đây mặt trời sắp lặn, hoàng hôn buông xuống, vũ trụ đang chìm dần vào cõi hư vô vắng lặng. Có chăng chỉ còn lại những tia sáng yếu ớt cuối chiều. Từ tà diễn tả một khái niệm sắp tàn lụi, biến mất. Không gian và thời gian gợi nỗi buồn man mác, đặc biệt của người lữ thứ tha hương:
Vẳng nghe chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau
Buổi chiều mà lại là chiều tà gợi cho người ta thêm nhớ hơn. Nữ sĩ cũng vậy, khoảng thời gian ấy thích hợp nhất cho sự bộc lộ tâm trạng nhớ nhung khắc khoải. Lữ thứ chân bước vội cũng như cánh chim chiều mau cánh tìm chỗ trú ngụ, lũ trẻ chăn trâu gọi bạn hồi thôn. Không chỉ có trong bài thơ này, trong bài Chiều hôm nhớ nhà ta cũng bắt gặp tâm sự đó.
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
Ráng chiều gợi tâm trạng nhớ thương. Hoành sơn vốn nổi tiếng hùng vĩ hoang sơ. Trong khung cảnh ấy trước mắt thi nhân cỏ cây hoa lá chen chúc nhau tìm chút ánh sáng mặt trời. Một mình trên đỉnh núi non hiểm trở lại càng cảm thấy trống vắng. Mặc dù cảnh vật hữu tình: cỏ cây, hoa lá, sông nước, biển khơi ... Có lẽ lòng nữ sĩ chợt nhớ, hay nói cho đúng hơn hình ảnh người thân, gia đình, quê hương chợt hiện về. Đây cũng là lúc bữa cơm chiều đang đón đợi, cả nhà sắp tụ họp bên nhau... Vậy mà giờ đây một mình cất bước nơi đất khách quê người.
Đang nao lòng buồn bã, phía xa xa dưới chân đèo xuất hiện hình ảnh:
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Cảnh vật sự sống thật vắng vẻ: mấy bác tiều phu lom khom đốn củi, vài ngôi nhà chợ liêu xiêu. Lối đảo ngữ được vận dụng rất thần tình, hình ảnh này gợi một sự so sánh liên tưởng tới cuộc sống tẻ nhạt, tiêu xơ. Nó khác hẳn chốn kinh kỳ náo nhiệt đua chen. Nhà thơ đi tìm sự sống, nhưng chốn Đèo Ngang khiến cho lòng Bà đầy thất vọng. Hai câu thơ đối nhau rất chỉnh tạo nên hình ảnh tiêu điều xơ xác của cuộc sống chốn đèo Ngang.
Trong sự vắng lặng ấy xa xa nghe có tiếng kêu đều khoan nhặt man mác nhớ thương của quốc quốc, gia gia. Tương truyền sau khi vua Thục là Lưu Bị bại trận trước Lục Tốn của Đông Ngô, ông chạy về thành Bạch Đế và mất tại đó. Sau khi mất Thục Đế đã hoá thành con chim quốc thể hiện niềm đau xót mất nước. Khung cảnh da diết tiếng chim kêu chiều buồn bã gợi ta nhớ những câu thơ:
Đây bốn bề núi núi
Hiu hắt vắng tăm người
Đèo cao và lưng hẹp
Dăm túp lều chơi vơi
Tiếng chim quốc, gia gia do chính bà cảm nhận hay là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn nữ sĩ. Đến đây nỗi lòng thi nhân đồng điệu với ông vua Thục muốn níu kéo những kỉ niệm xưa, hoài niệm về một thời dĩ vãng vàng son. Tiếng chim gợi nỗi niềm nhớ nước thương nhà đến nao lòng. Nhớ về gia đình, nhớ về đất nước - phải chăng chính sự hoài niệm về triều đại nhà Lê mà bà từng sống. Thái độ của nữ sĩ là phủ nhận thực tại, tìm về quá khứ. Nhà thơ Nguyễn Du đã từng nói "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?" trong hoàn cảnh này điều đó hoàn toàn hợp lý.
Khép lại bài thơ là cả một tâm trạng dồn nén:
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta
Nhà thơ có tâm sự u hoài, đứng trước không gian vời vợi bao la: trời, non, nước. Khung cảnh càng rộng lớn thì con người càng bé nhỏ cô đơn. Và như vậy chỉ có ta với ta, mình với mình mà thôi. Ta là cá nhân nữ sĩ - con người của vật chất đối diện với ta - con người của tâm hồn.
Một mình dối diện với không gian cảnh vật, với cuộc sống và để rồi với chính mình. Trong lòng thi nhân chất chứa bao nỗi niềm biết chia sẻ cùng ai? Một mảnh tình riêng trong một khối tình rộng lớn có chăng mình lại nói chuyện với mình. Nỗi buồn được nhân lên gấp bội. Đây là tâm sự của chính tác giả và cũng là tâm sự của những con người xót xa trước thế sự đổi thay, của những thế hệ từng sống với quá khứ, xót xa với thực tại.
Có rất nhiều những nhà thơ mượn cảnh để tả tình, nhưng có lẽ thành công nhất là Bà Huyện Thanh Quan. Hình ảnh thơ gần gũi, giàu sức biểu cảm. Điều đáng nói ở đây là bà đã lựa chọn được những tín hiệu nghệ thuật đắt giá để từ đó diễn tả tâm sự của chính mình. Trong bài thơ đã có đầy đủ cả tâm hồn, tình cảm, nỗi lòng nhà thơ gửi gắm vào đó. Lời thơ nghe xúc động bồi hồi làm cho người đọc cũng băn khoăn day dứt.