Câu hỏi: Read the following passage and mark the letter A, B, C, or D on your answer sheet to indicate the correct answer to each of the questions.
Throughout the nineteenth century and into the twentieth, citizens of the United States maintained a bias against big cities. Most lived on farms and in small towns and believed cities to be centers of corruption, crime, poverty, and moral degradation. Their distrust was caused, in part, by a national ideology that proclaimed farming the greatest occupation and rural living superior to urban living. This attitude prevailed even as the number of urban dwellers increased and cities became an essential feature of the national landscape. Gradually, economic reality overcame ideology. Thousands abandoned the precarious life on the farm for more secure and better paying jobs in the city. But when these people migrated from the countryside, they carried their fears and suspicion with them. These new urbanities, already convinced that cities were overwhelmed with great problems, eagerly embraced the progressive reforms that promised to bring order out of the chaos of the city.
One of many reforms came in the area of public utilities. Water and sewerage were usually operated by municipal governments, but the gas and electric networks were privately owned. Reformers feared that the privately owned utility companies would charge exorbitant rates for these essential services and deliver them only to people who could afford them. Some city and state governments responded by regulating the utility companies, but a number of cities began to supply these services themselves. Proponents of these reforms argued that public ownership and regulation would insure widespread access to these utilities and guarantee a fair price.
While some reforms focused on government and public behavior, others looked at the cities as a whole Civic leaders, convinced that physical environment influenced human behavior, argued that cities should develop master plans to guide their future growth and development. City planning was nothing new, but the rapid industrialization and urban growth of the late nineteenth century took place without any consideration for order. Urban renewal in the twentieth century followed several courses. Some cities introduced plans to completely rebuild the city core. Most other cities contented themselves with zoning plans for regulating future growth. Certain parts of town were restricted to residential use, while others were set aside for industrial or commercial development
(Source: TOEFL Reading)
What does the passage mainly discuss?
A. Methods of controlling urban growth in the twentieth century
B. The role of government in the twentieth century urban renewal
C. A comparison of urban and rural life in the early twentieth century
D. Efforts to improve urban life in the early twentieth century
Throughout the nineteenth century and into the twentieth, citizens of the United States maintained a bias against big cities. Most lived on farms and in small towns and believed cities to be centers of corruption, crime, poverty, and moral degradation. Their distrust was caused, in part, by a national ideology that proclaimed farming the greatest occupation and rural living superior to urban living. This attitude prevailed even as the number of urban dwellers increased and cities became an essential feature of the national landscape. Gradually, economic reality overcame ideology. Thousands abandoned the precarious life on the farm for more secure and better paying jobs in the city. But when these people migrated from the countryside, they carried their fears and suspicion with them. These new urbanities, already convinced that cities were overwhelmed with great problems, eagerly embraced the progressive reforms that promised to bring order out of the chaos of the city.
One of many reforms came in the area of public utilities. Water and sewerage were usually operated by municipal governments, but the gas and electric networks were privately owned. Reformers feared that the privately owned utility companies would charge exorbitant rates for these essential services and deliver them only to people who could afford them. Some city and state governments responded by regulating the utility companies, but a number of cities began to supply these services themselves. Proponents of these reforms argued that public ownership and regulation would insure widespread access to these utilities and guarantee a fair price.
While some reforms focused on government and public behavior, others looked at the cities as a whole Civic leaders, convinced that physical environment influenced human behavior, argued that cities should develop master plans to guide their future growth and development. City planning was nothing new, but the rapid industrialization and urban growth of the late nineteenth century took place without any consideration for order. Urban renewal in the twentieth century followed several courses. Some cities introduced plans to completely rebuild the city core. Most other cities contented themselves with zoning plans for regulating future growth. Certain parts of town were restricted to residential use, while others were set aside for industrial or commercial development
(Source: TOEFL Reading)
What does the passage mainly discuss?
A. Methods of controlling urban growth in the twentieth century
B. The role of government in the twentieth century urban renewal
C. A comparison of urban and rural life in the early twentieth century
D. Efforts to improve urban life in the early twentieth century
Kiến thức: Đọc hiểu
Giải thích: ven Đoạn văn chủ yếu thảo luận về vấn đề gì?
A. Những phương pháp kiểm soát việc tăng trưởng đô thị trong thế kỷ XX
B. Vai trò của chính quyền trong đổi mới đô thị thế kỷ XX
C. So sánh cuộc sống thành thị và nông thôn đầu thế kỷ XX
D. Những nỗ lực để cải thiện đời sống đô thị đầu thế kỷ XX
Dịch bài đọc:
Trong suốt thế kỷ XIX đến thế kỷ XX, công dân Hoa Kỳ liên tục duy trì thành kiến đối với các thành phố lớn. Hầu hết những người dân sống trong các trang trại và trong các thị trấn nhỏ tin rằng các thành phố lớn là trung tâm của sự tham nhũng, tội phạm, nghèo đói và suy thoái đạo đức. Việc mất lòng tin này xảy ra, một phần, do một hệ tư tưởng quốc gia tuyên bố rằng nông nghiệp là nghề nghiệp tuyệt vời nhất và cuộc sống nông thôn vượt trội hơn với cuộc sống đô thị. Thái độ này chiếm ưu thế ngay cả khi số lượng cư dân đô thị tăng lên và các thành phố trở thành một đặc điểm thiết yếu của cảnh quan quốc gia. Dần dần, thực trạng kinh tế đã vượt qua hệ tư tưởng. Hàng ngàn người đã từ bỏ cuộc sống bấp bênh trong trang trại để có công việc an toàn hơn và được trả lương cao hơn trong thành phố. Nhưng khi những người này di cư từ nông thôn, họ mang theo nỗi sợ hãi và nghi ngờ của chính họ. Những người dân thành thị mới này, đã bị thuyết phục rằng các thành phố tràn ngập với những vấn đề to lớn, háo hức đón nhận những cải cách tiến bộ - những thứ hứa hẹn sẽ sắp xếp lại trật tự cho sự hỗn loạn của thành phố.
Một trong nhiều cải cách đến từ lĩnh vực tiện ích công cộng. Sự cấp và thoát nước thường được vận hành bởi chính quyền thành phố, nhưng mạng lưới điện và khí đốt thuộc sở hữu tư nhân. Các nhà cải cách sợ rằng các công ty tiện ích thuộc sở hữu tư nhân sẽ tính mức giá cắt cổ cho các dịch vụ thiết yếu này và chỉ cung cấp chúng cho những người có thể trả phí. Một số chính quyền thành phố và tiểu bang đã phản ứng bằng cách chỉnh đốn các công ty tiện ích, nhưng một số thành phố đã bắt đầu tự cung cấp các dịch vụ này. Những người ủng hộ các cải cách này lập luận rằng quyền sở hữu và điều hành công cộng sẽ đảm bảo quyền tiếp cận rộng rãi đến các tiện ích này và đảm bảo một mức giá hợp lý.
Trong khi một số cải cách tập trung vào hành động của chính phủ và công chúng, những cái khác lại nhìn nhận các thành phố như là các nhà lãnh đạo toàn bộ công dân, thuyết phục rằng môi trường vật lý ảnh hưởng đến hành vi của con người, chứng tỏ rằng các thành phố nên phát triển các kế hoạch tổng thể để định hướng cho sự tăng trưởng và phát triển trong tương lai. Quy hoạch thành phố thì không có gì mới, nhưng quá trình công nghiệp hóa và phát triển đô thị nhanh chóng vào cuối thế kỷ XIX đã diễn ra mà không có sự cân nhắc nào về trật tự. Đổi mới đô thị trong thế kỷ XX đã theo một số tiến trình. Một số thành phố giới thiệu kế hoạch xây dựng lại hoàn toàn trung tâm thành phố. Hầu hết các thành phố khác hài lòng với các kế hoạch phân vùng để điều chỉnh tăng trưởng trong tương lai. Một số phần nhất định của thị trấn hạn chế cho người dân sử dụng, trong khi những phần khác được dành cho phát triển công nghiệp hoặc thương mại.
(Nguồn: TOEFL Reading)
Giải thích: ven Đoạn văn chủ yếu thảo luận về vấn đề gì?
A. Những phương pháp kiểm soát việc tăng trưởng đô thị trong thế kỷ XX
B. Vai trò của chính quyền trong đổi mới đô thị thế kỷ XX
C. So sánh cuộc sống thành thị và nông thôn đầu thế kỷ XX
D. Những nỗ lực để cải thiện đời sống đô thị đầu thế kỷ XX
Dịch bài đọc:
Trong suốt thế kỷ XIX đến thế kỷ XX, công dân Hoa Kỳ liên tục duy trì thành kiến đối với các thành phố lớn. Hầu hết những người dân sống trong các trang trại và trong các thị trấn nhỏ tin rằng các thành phố lớn là trung tâm của sự tham nhũng, tội phạm, nghèo đói và suy thoái đạo đức. Việc mất lòng tin này xảy ra, một phần, do một hệ tư tưởng quốc gia tuyên bố rằng nông nghiệp là nghề nghiệp tuyệt vời nhất và cuộc sống nông thôn vượt trội hơn với cuộc sống đô thị. Thái độ này chiếm ưu thế ngay cả khi số lượng cư dân đô thị tăng lên và các thành phố trở thành một đặc điểm thiết yếu của cảnh quan quốc gia. Dần dần, thực trạng kinh tế đã vượt qua hệ tư tưởng. Hàng ngàn người đã từ bỏ cuộc sống bấp bênh trong trang trại để có công việc an toàn hơn và được trả lương cao hơn trong thành phố. Nhưng khi những người này di cư từ nông thôn, họ mang theo nỗi sợ hãi và nghi ngờ của chính họ. Những người dân thành thị mới này, đã bị thuyết phục rằng các thành phố tràn ngập với những vấn đề to lớn, háo hức đón nhận những cải cách tiến bộ - những thứ hứa hẹn sẽ sắp xếp lại trật tự cho sự hỗn loạn của thành phố.
Một trong nhiều cải cách đến từ lĩnh vực tiện ích công cộng. Sự cấp và thoát nước thường được vận hành bởi chính quyền thành phố, nhưng mạng lưới điện và khí đốt thuộc sở hữu tư nhân. Các nhà cải cách sợ rằng các công ty tiện ích thuộc sở hữu tư nhân sẽ tính mức giá cắt cổ cho các dịch vụ thiết yếu này và chỉ cung cấp chúng cho những người có thể trả phí. Một số chính quyền thành phố và tiểu bang đã phản ứng bằng cách chỉnh đốn các công ty tiện ích, nhưng một số thành phố đã bắt đầu tự cung cấp các dịch vụ này. Những người ủng hộ các cải cách này lập luận rằng quyền sở hữu và điều hành công cộng sẽ đảm bảo quyền tiếp cận rộng rãi đến các tiện ích này và đảm bảo một mức giá hợp lý.
Trong khi một số cải cách tập trung vào hành động của chính phủ và công chúng, những cái khác lại nhìn nhận các thành phố như là các nhà lãnh đạo toàn bộ công dân, thuyết phục rằng môi trường vật lý ảnh hưởng đến hành vi của con người, chứng tỏ rằng các thành phố nên phát triển các kế hoạch tổng thể để định hướng cho sự tăng trưởng và phát triển trong tương lai. Quy hoạch thành phố thì không có gì mới, nhưng quá trình công nghiệp hóa và phát triển đô thị nhanh chóng vào cuối thế kỷ XIX đã diễn ra mà không có sự cân nhắc nào về trật tự. Đổi mới đô thị trong thế kỷ XX đã theo một số tiến trình. Một số thành phố giới thiệu kế hoạch xây dựng lại hoàn toàn trung tâm thành phố. Hầu hết các thành phố khác hài lòng với các kế hoạch phân vùng để điều chỉnh tăng trưởng trong tương lai. Một số phần nhất định của thị trấn hạn chế cho người dân sử dụng, trong khi những phần khác được dành cho phát triển công nghiệp hoặc thương mại.
(Nguồn: TOEFL Reading)
Đáp án D.